Tình huống đặt ra: Khi có bướu sờ thấy đi khám chẩn đoán là bướu vú lành tính nhưng vài tháng sau đi khám lại chẩn đoán là UNG THƯ. Tại sao như vậy?
Có 4 tình huống
• Xuất hiện bướu vú mới là ung thư
• Diễn tiến từ tiền ung thư sang ung thư
• Sai số khách quan hay còn gọi là âm tính giả
• Chẩn đoán sai
1. Xuất hiện bướu vú mới là UNG THƯ
Bướu ung thư lần này khi tái khám lại là bướu khác, bướu vú mới chứ không phải bướu vú khám lần trước. Điều này được xác định khi bướu ung thư này nằm ở vị trí khác với bướu lần trước. Nhưng bác sĩ không báo cho người bệnh biết và người bệnh cũng không hỏi nên gây ra hiểu nhầm: “lần trước lành tính sao bây giờ là ung thư”
2. Diễn tiếc từ tiền ung thư sang UNG THƯ
Bướu vú ban đầu là lành tính nhưng thuộc dạng tiền ung thư, có một số loại như vậy. Nay chuyển thành ung thư. Khả năng này hiếm vì với vài tháng, không quá nhanh như vậy, nhưng không có nghĩa là không xảy ra. Nếu lần trước có sinh thiết với tổn thương tiền ung thư thì có thể là đúng. Khi sinh thiết là tổn thương tiền ung thư có 2 tình huống: (1) chỉ có tổn thương tiền ung thư mà thôi hoặc (2) ngoài tổn thương tiền ung thư có cả ung thư trong đó nhưng sinh thiết bằng kim nên mẫu nhỏ và không phát hiện ra được.
3. Sai số khách quan hay còn gọi là âm tính giả
Bướu ung thư nhưng do không có các đặc điểm nghi ngờ ác tính khi thăm khám, không rõ trên hình ảnh bao gồm nhũ ảnh, siêu âm, cộng hưởng từ, ngay cả sinh thiết bằng kim nhỏ cũng không nhận dạng ra được nên bỏ sót, trong y khoa gọi là âm tính giả, có ung thư mà nói là không ung thư, tỉ lệ này rất thấp.
4. Chẩn đoán ban đầu không phù hợp hay sai sót
Chẩn đoán ung thư vú là sự kết hợp thăm khám, hình ảnh chẩn đoán và sinh thiết. Trong đó, đặc biệt lưu ý không phải tất cả bệnh nhân có bướu đều phải sinh thiết vì đa số bướu vú lành tính, ung thư chiếm tỉ lệ nhỏ nên tất cả đều sinh thiết sẽ dẫn đến một sự quá tải và tốn kém chi phí rất lớn.
Đầu tiên là thăm khám và hình ảnh chẩn đoán để phân loại nguy cơ ác tính và không nguy cơ, để xem có cần sinh thiết hay không.
• Đối với nhóm nguy cơ ác tính cao hay trung bình sẽ được sinh thiết. Đánh giá này phụ thuộc vào ekip bác sĩ lâm sàng thăm khám vú và bác sĩ hình ảnh. Đánh giá của ekip bác sĩ rất quan trọng, không đánh giá được nguy cơ này sẽ đến sai sót. Sinh thiết xong lành tính vẫn chưa xong, cần phải đánh giá sự tương hợp để xem có sinh thiết thêm hay không.
• Đối với nhóm nguy cơ thấp, rất nhiều bệnh nhân rơi vào nhóm này, trong đó một tỉ lệ rất nhỏ ác tính. Nhóm này sẽ được theo dõi định kỳ với khoảng 6 tháng. Nhưng người bệnh cần tự khám bướu này mỗi tháng, nếu thấy tăng kích thước cần đi khám ngay. Tuyệt đối không nên chủ quan với suy nghĩ rằng lần trước lành tính. Thực tế gặp rất nhiều các trường hợp đáng tiếc này do người bệnh không hiểu hoặc bác sĩ không dặn dò kỹ.
Khi có chỉ định sinh thiết cần đi đến cùng để có chẩn đoán xác định. Khi đó có sự kết hợp bộ ba chẩn đoán bao gồm lâm sàng, hình ảnh và sinh thiết. Đây là cách đánh giá sự tương hợp. Sự kết hợp bộ ba này cho kết quả chính xác 100% theo các nghiên cứu hiện nay trong y khoa. Nếu không kết hợp đầy đủ như vậy sẽ dẫn đến sai sót do bác sĩ không tuân thủ khuyến cáo trong y khoa.
Như vậy, sai sót ở đây có thể xảy ra do:
• Kỹ năng thăm khám không tỉ mỉ và không hỏi kỹ bệnh sử tiền căn gia đình.
• Do kỹ năng thực hiện lấy hình ảnh và đọc kết quả siêu âm, nhũ ảnh, cộng hưởng từ, và tế bào học hay mô học qua sinh thiết.
• Do không đối chiếu và không kết hợp đủ bộ 3 chẩn đoán với sự hội chẩn chặt chẽ giữa các bác sĩ trong ekip khi cần.
Tóm lại, khi một người có bướu vú sờ thấy với chẩn đoán là bướu vú lành, nhưng vài tháng sau đi khám lại, chẩn đoán là ung thư thì có thể do sai số khách quan hoặc chủ quan. Nếu ekip bác sĩ tuân thủ không đúng đề nghị của y khoa và không phối hợp cùng với bệnh nhân để theo dõi chặt chẽ thì sai sót này là chủ quan và rất đáng tiếc.
Tham khảo: Wikipedia
Bs CKII Nguyễn Hữu Hòa – Chuyên gia Ung bướu, Cố vấn chuyên môn tại Phòng khám đa khoa Pasteur